Giải Trí – Vui Cười

 

  • Tiêu chuẩn chọn vợ:

Phải đẹp gái – Không kiêu sa -Thích ở nhà – Lo nội trợ – Không cắc cớ chửi chồng con -Không phấn son – Không nhiều chuyện – Không hà tiện – Không càm ràm -Phải siêng năng – Không lười biếng – Nói nhỏ tiếng – Biết chiều chồng – Giỏi nữ công và gia chánh. – Biết làm bánh – Nấu ăn ngon – Biết dạy con – Ứng xử tốt – Không quá dốt – Không quá khôn – Không ôm đồm – Không ủy mị – Không thiên vị – Không cầu kỳ – Không quá phì – Không quá ốm -Không dị hợm – Không chanh chua – Không se sua – Không bẻm mép – Không bép xép – Không phàn nàn.

 

  • Tiêu chuẩn kén chồng:

Không đẹp trai, tính trung hậu – Không la cà, thích ở nhà – Không nhăn mặt, chẳng nhíu mày – Không lên giọng, chẳng hét to – Chớ tưởng rằng “ta là dzua” – Mà nên nhớ, Thương vợ hiền, quý con thơ – Đảm việc nước, chăm việc nhà – Thế mới là…….. trai nước Việt.

 

  • Là ai?

Hai vợ chồng cãi nhau.

Chồng: “Sao cô cứ cãi lại tôi nhỉ, thế cô là vợ tôi hay là mẹ tôi?”

Vợ: “Ai biết đâu! Thằng nào vẫn bú tôi thì thằng đó là con tôi.”

Anh chồng tức lắm nhưng chưa biết nói gì, thằng con đế thêm: “Mẹ nói đúng rồi bố ạ.”

Anh chồng quát: “Lại cả mày nữa à, mày coi tao là bố mày hay là em mày hả?”

Thằng con: “Ai biết đâu! Thằng nào cai sữa trước thì thằng đó làm anh!”

 

  • Lịch sự là gì?

Trên xe buýt, một cô gái đang đọc quyển từ điển dày cộm. Anh chàng đứng kề bên chăm chú nhìn vào. Cô gái nhỏ nhẹ: “Anh có biết lịch sự là gì không?”

Anh ta giằng ngay quyển từ điển: “Ðưa đây tôi tra cho, có thế mà nãy giờ không chịu nói.”

 

  • Bài diễn văn hay chết người

Trong một vụ đắm tàu, 10 người đàn ông và một cô gái bám vào sợi dây ròng xuống từ một chiếc máy bay trực thăng cứu cấp. Phi công thông báo, một người phải buông tay, nếu không sợi dây sẽ đứt và tất cả sẽ chết.

Ai sẽ là vật tế thần đây?

Cuối cùng, cô gái kể cho cánh đàn ông nghe một câu chuyện thật cảm động về sự hy sinh. Cô kết luận rằng mình sẵn sàng hiến dâng cuộc sống để cứu họ, rồi hô to: – Hy sinh cao đẹp là bất tử!

Cô gái chưa dứt lời, cả đám đàn ông đều… vỗ tay!

 

  • Hình phạt nhẹ nhàng nhất

Một người phạm nhiều tội lỗi khi chết phải xuống địa ngục. Diêm vương bắt anh ta chọn một trong số 18 số hình phạt. Theo chân quỷ sứ, phạm nhân được xem qua hết 17 tầng địa ngục, các hình phạt rất khủng khiếp như bị nấu trong vạc dầu, cắt gân, mổ bụng… Đến mỗi tầng anh chàng đều lắc đầu quầy quậy.

Khi đến tầng thứ 18, trông thấy có một đám phạm nhân đang bị đứng trong một căn hầm phân ngập đến ngang lưng, anh này mừng húm, nói với quỷ sứ: – Thôi được. Tôi chọn hình phạt này.

Nói rồi bèn chạy tọt vào căn hầm. Vừa lúc đó, tên quỷ sứ phụ trách căn hầm đó quát: – Hết giờ giải lao. Nào, tất cả hãy cắm đầu xuống!

 

  • Địa ngục

Một người chết phải xuống địa ngục. Tại đó, có hai cửa, một cửa đề “Địa ngục xã hội chủ nghĩa”, cửa kia đề “Địa ngục tư bản chủ nghĩa”. Trước cửa “Địa ngục xã hội chủ nghĩa”, người ta xếp hàng rồng rắn, còn ở cửa “Địa ngục tư bản chủ nghĩa” chẳng có ai chờ. Anh này đến cổng “Địa ngục tư bản chủ nghĩa” và hỏi: – “Vào cửa này thì phải chịu hình phạt gì?”

  • “Bị đóng đinh vào người, bị xiên và nướng trên sắt nung bỏng rồi bị nấu trong dầu!”

Hoảng sợ, anh ta sang cổng “Địa ngục xã hội chủ nghĩa” và hỏi: – “Thế vào cửa này thì phải chịu hình phạt gì?”

  • “Bị đóng đinh vào người, bị xiên và nướng trên sắt nung bỏng rồi bị nấu trong dầu!”
  • “Thế sao vẫn lắm người xếp hàng thế?”
  • “Vì ở đây, hoặc không có đinh, hoặc không có sắt xiên thịt, hoặc không có dầu, nhưng thường là không có cả ba!”

 

  • Diễn Giả Cừ Khôi

Trong làng Hướng Đạo chúng ta, Trưởng nào mà có hai viên lủng lẳng đeo trên cổ là được anh em kính nể, vì đã được liệt vào hàng Trưởng lớn. Trưởng nào mà có bốn viên lủng lẳng trên cổ thì lại còn lớn hơn, tạm gọi là “Xếp bự”. Các Trưởng này ngày xửa ngày xưa, Cụ Lê Nguyên Bách gọi là “Bát đờ boa” (Badge de bois). Ngày nay chúng mình gọi là Trưởng bằng gỗ, hay Trưởng bằng cây. Các em bây giờ, nhiều em dốt tiếng Việt, tưởng là các Trưởng nầy làm bằng gỗ hay bằng cây.

Các Trưởng nầy phần lớn, hay hầu hết đã có gia đình, nói nôm na là đã có lần lên xe hoa về nhà vợ. Mà khi đã có vợ rồi, đương nhiên là mình đã có người để mà mình cho hay những việc đã, đang và sắp sửa làm. Có lắm kẻ xấu mồm xấu miệng bảo như thế là mình sợ vợ, làm gì cũng phải trình Bà. Ai nói gì thì nói, mình cứ làm đúng theo sách vở thánh hiền, đúng theo luân lý Giáo Khoa Thư, và đúng theo Luật Hướng Đạo là: “Kinh Thê Đắc Thọ” nghĩa là “Nể vợ sống lâu”. Bởi thế cho nên có một lần anh em từ khắp nơi trên thế giới về họp mặt tại một trại trường kia, Trưởng “Đại Cồ Vịt ” nhà ta được anh em cử ra để thuyết trình trước Đại Hội. Cũng theo thông lệ, trước ngày “Đại Trưởng” đăng đàn diễn thuyết, Trưởng Bà bèn xin Trưởng Ông cho biết là ngày mai “Người” sẽ nói về vấn đề gì?

Muốn cho yên nhà lợi nước, Trưởng Ông nói dối rằng “Người” sẽ thuyết trình về “Nghệ thuật kỵ mã”. Trưởng bà liền tin ngay, vì mới đây Trưởng Ông tham khảo rất nhiều sách về “Ngựa”. Nào là Ngựa Xích thố, nào là Bạch Mã, nào là Ngựa Ô v.v. và có lắm khi Người lại còn ngâm câu thơ tiếu lâm:

Bạch mã mao như tuyết

Tứ túc cương như thiết

Tướng công kỵ Bạch mã

Bạch mã tẩu như phi.

Nhưng đến họp mặt với anh chị em, có rất nhiều nam nữ Trưởng trẻ trung muốn được biết về hạnh phúc lứa đôi, và những bí mật phòng the, hoặc là kinh nghiệm gối chăn, nên Trưởng Ông đã được anh chị em yêu cầu nói chuyện về một đề tài khác hẳn câu chuyện cưỡi ngựa. Trưởng ông nói chuyện hấp dẫn quá, mê ly quá, hùng biện quá nên rất nhiều lần A A vang dậy cả hội trường. Anh Chị Em tấm tắc khen hay, Trưởng Ông được hoan nghênh quá xá.

Ngày hôm sau, một số các Chị gặp Trưởng bà, vội vàng níu lấy, khen lấy khen để: “Chị ơi, Anh nhà ta hôm qua diễn thuyết hay quá, thật là một tay lão luyện, rất am tường vấn đề, giàu kinh nghiệm…”

Không để cho chị em nói hết câu, Trưởng Bà vẫn cứ đinh ninh là chồng mình nói chuyện về cưỡi ngựa, bèn tuyên bố một câu xanh dờn: “Ối giời ơi, mấy chị quá khen thì nói thế, chứ tôi biết nhà tôi quá mà. Chính mắt tôi thấy có lần anh ấy ì à ì ạch leo lên mãi mà chẳng được, lại có lần bị đá, xái cả xương hông!

Mai Xuân Tý

 

  • Đàn bà

                Cho tôi hỏi đàn bà là chi rứa?

                Là những gì rung động trái tim ta,

                Là cho ta cảm thấy nổi da gà,

                Là gặp gỡ, xốn xang, là tiếng sét,

                Là hợp gu nghĩa là chung tính nết,

                Là âm thầm nhung nhớ lúc chia xa!

                Là nụ hôn ơi rợn cả thịt da,

                Là ẻo lả vòng tay nhưng rất chặt.

                Là mái tóc mùi chanh thơm hăng hắc,

                Là môi mềm tẩm thấm bùa mê.

                Là đôi chân thoăn thoắt, đến, đi, về

                Là son phấn ngạt ngào hương rực rỡ,

                Là niềm vui cho hồn ta cời mở,

                Là đắng cay nhục nhã lúc ghen tuông.

                Là dễ thương ở những lúc thẹn thùng,

                Là bẳn gắt dữ dằn khi la lối.

                Là những người sợ ma về ban tối

                Là ôm chặt để tìm chỗ chở che.

                Là đắm say lúc má tựa môi kề,

                Là hay nói suốt đời yêu anh mãi.

                Là cái tật tối ngày luôn lải nhải

                Là chỉ mình lẻ phải, các ông thua!!!

                Là shopping hay đi sắm đi mua,

                Là phục vụ đến gãy lìa xương sống!

                Là hay hơn mặt chầm dầm một đống,

                Là hỏi gì không nói, gọi không thưa.

                Là ngoài trời vừa nắng lại vừa mưa,

                Là phải trái trắng đen không phân biệt

                Là cải cọ ta vẫn là thua thiệt!

                Là chịu thua thôi đi ngủ cho xong.

                Là vắng nhà một bữa đã nhớ mong,

                Là đủ thứ hầm bà lằng trong đó!

                Tạ ơn trời Ðàn bà vẫn còn đó

                Ðể đàn ông vẫn còn có niềm vui,

                Chỉ đàn ông? Thà chết quách cho rồi.

 

  • THƠ TRÀO PHÚNG “ÐẠO BÀ”

                Ngồi buồn kiếm chuyện nói chơi,

                Nhất vợ nhì trời… là chuyện tự nhiên.

                Ðàn ông sợ vợ thì sang,

                Ðàn ông đánh vợ tan hoang cửa nhà.

                Ðàn ông không biết thờ “bà”

                Cuộc đời lận đận kể là vứt đi.

                Ðàn ông sợ vợ ai khi,

                Vợ mình, mình sợ sá gì thế gian!!!

                Ðàn ông khí phách ngang tàng,

                Nghe lời vợ dạy là hàng “trượng phu.”

                Ðàn ông đánh vợ là ngu,

                Tốn tiền cơm nước, ở tù như chơi.

                Lấy nàng từ thuở mười nhăm,

                Ðến khi mười chín tôi đà năm con.

                Nàng thì trông hãy còn son,

                Tôi thì đinh ốc, bù lon rã rời.

                Nắng mưa là chuyện của trời,

                Tề gia nội trợ có tôi bao thầu.

                Suốt ngày cày cấy như trâu,

                Chiều về rửa chén cũng “ngầu” như ai.

                Nấu cơm, đi chợ hàng ngày,

                Bồng con, thay tã tôi đây vẹn toàn.

                Lau nhà, lau cửa chẳng màng,

                Ôi thời oanh liệt ngang tàng còn đâu.

                Nhiều khi muốn hộc xì dầu,

                Xin nàng nghỉ phép, nàng chau đôi mày.

                Nàng đòi thi đấu võ đài,

                Tung ra một chưởng, chén bay ào ào.

                Nhớ xưa mình mới quen nhau,

                Em ăn, em nói ngọt ngào dễ thương.

                Cho nên tôi mới bị lường,

                Mang thân ngà ngọc cậy nương nơi nàng.

                Than ôi thực tế phũ phàng,

                Mày râu một kiếp thôi đành đi đoong.

                Một lòng thờ dzợ sắc son,

                Còn non còn nước thì tôi còn… thờ.

 

  • Sướng ghê

Xin nói ngay là cái sướng nầy chỉ dành cho những em tuổi từ sáu mươi, bảy mươi hoặc tám mươi trở lên.

Thật đấy, chỉ có các em thuộc lứa tuổi kể trên mới “họa may” hưởng được cái sướng mà tôi sắp kể, còn các em 50 trở lại, thì, nếu muốn sướng lây, cứ việc đọc tiếp, không ai cấm ngăn gì cả.

Khoảng 70 năm về trước, tôi được cha me sinh ra trong một thôn xóm nhỏ của một làng nghèo khó xa xôi của tỉnh Nam Định. Lớn lên tôi nhớ là suốt đời tôi chỉ mặc áo nâu, quần nâu. Năm thì mười họa mới được khoác cái áo the thâm vá, và mặc cái quần cháo lòng. Thường nhật chỉ ăn ngô ăn khoai, lâu lâu mới được bữa cơm bữa cháo … bào ngư. Cuộc đời thật là cơ cực. Nhưng những cái cực về vật chất có nhằm nhò gì. Những cái khổ tinh thần mới đáng cho mình than thân trách phận.

Nói như vậy chớ tôi cũng không muốn tả khổ sở của tôi ngày xưa và cái “sợ Tây” của tôi như thế nào, anh em chắc ai cũng biết cả, nói thêm chỉ buồn cho cái thân già.

Nhưng bỗng dưng năm 1975, một số “chúng ông” được nhiều nước trên thế giới Tự Do mời sang cư ngụ. Trong số đó tôi được người mách nước, dắt vợ con đi theo. Từ đó cuộc đời tôi lên hương.

Xưa kia tôi chỉ tắm ao, tắm sông; bây giờ tôi lại được tắm “đút”, tôi đã bắt đầu nói tiếng tây rồi đấy! Tôi lại nói cả tiếng Mỹ nữa cơ, tôi viết thơ vế nhà khoe là tôi “shower” chứ không thèm nói “douche” nữa. Cuộc sống vật chất của tôi khác hẳn lúc tôi còn sống ở làng tôi. Nhưng vật chất mà nhằm nhò gì. Cái sướng tinh thần mới là cái sướng đáng kể. Sướng không thể tả được là “ló thướng thế lào, ló thướng nàm thao”. Chỉ biết trình ra đây để các cụ biết và định nghĩa cái sướng hộ tôi.

Lúc tôi theo “chúng ông”, dắt một vợ (một vợ mà thôi, vợ nhỏ bỏ lại) và 4 con trai sang đây, tôi đâu có ngờ rằng con trai tôi thằng nào cũng sắp đến tuổi đòi vợ rồi. Tôi cũng rất mong các con tôi lấy được vợ “Truyền thống” để có người nối dõi tông đường và khỏi bị mất gốc. Thế nhưng sự thực phủ phàng đã làm tôi đau khổ không ít. Các con tôi báo cáo cho tôi biết rằng: “Vợ Truyền thống ở đây đắt tiền lắm, khó tìm, vì là loại nhập cảng nên khó khăn lắm”. Lúc đó tôi mới ý thức được rằng con mình thuộc loại “xí giai”, học dốt, con nhà nghèo thì sức mấy mà lấy được vợ “Truyền thống”. Đành cho chúng lấy vợ “lô canh” vậy.

Tôi đang đau khổ như người bị bịnh trĩ, thì mấy năm sau tôi lại thấy tôi thật là sung sướng vì tôi có gần một chục cháu nội, thường chạy theo tôi mà kêu “ông Nội, ông Nội”.

Làm ông, ai mà chẳng thương cháu, nhất là cháu nội, Nhưng tôi lại thương các cháu hơn là vì, không biết các nàng dâu của tôi có ngoại tình không mà các cháu nội tôi đứa nào da cũng trắng, tóc cũng vàng, mắt cũng xanh, mũi cũng lõ!

Nhìn lũ tây con ấy, tôi sực nhớ ra hiện nay mình là “ÔNG NỘI TÂY”. Ôi giời đất ơi sao mà sướng thế! Lại còn sướng hơn nữa là những khi các con dâu của tôi nổi giận cháu nội tôi, chúng nó mắng nhiếc nhau bằng thứ tiếng gì mà tôi chẳng hiểu, thành ra tôi nghe êm tai ghê.

Tôi sung sướng vì tôi chắc chắn là các con dâu của tôi không bao giờ, xin nhấn mạnh KHÔNG BAO GIỜ, sẽ chửi các cháu nội tôi bằng câu: “ÔNG NỘI MÀY”!

Sướng ghê!!

Mai Xuân Tý   

 

  • Truyền nghề Trưởng Hướng Đạo

Báo Nguồn thật số 12 là số báo Đặc Biệt về Trưởng Hướng Đạo. Anh em muốn tôi viết về đề tài nầy.

Gần đây anh em bên quận Cam, nước Mỹ cũng muốn tôi hiến anh em ít nhiều kinh nghiệm mà tôi đã thâu thập được trong gần 60 năm theo anh em trong làng bị gậy và trong hai lần 35 tuổi đời.

Tôi phân vân quá!

Phân vân không biết có nên đem những điều xưa kia Ông, Cha, Thầy , Trưởng đã dạy mình để truyền lại … Vì thế chỉ xin nhận ghi lại nơi đây một vài nhận xét.

Đầu tiên xin nói về … Đàn Bà.

Khoan! Anh em đừng tưởng bở!

Đàn bà đây là đàn bà trước đây 6, 7 chục năm ở nước Giao Chỉ. Khi ấy đàn bà ít ai được đi học. Đàn bà chỉ ở xó bếp! Học hành chỉ dành cho nam giới mà thôi!

Trong việc học hành, đàn ông đã được huấn luyện để coi đàn bà như rơm rác. Không khi nào để đàn bà xỏ chân lổ mũi. Nhà nào mà không có con trai, thì dầu cho có sinh 10 cô con gái thì cũng kể như không. Câu “Thập nữ viết vô” là như thế đấy.

Phải học thuộc lòng câu “Chồng Chúa vợ tôi” để coi vợ như tôi đòi, đầy tớ. Đi đâu thì đàn ông đi trước đàn bà theo sau.

Đàn bà tượng trưng cho sự xui xẻo.

Ra ngõ gặp gái là xui tận mạng.

Chẳng những thế, thiên hạ lại còn đặt ra những câu để hạ nhục phái đẹp như:

“Một trăm đàn bà không bằng một điếu xì gà đàn ông”.

Thế nhưng ngày nay, sống trong xã hội Âu, Mỹ thì đàn bàn lại là nhất:

“Một trăm đàn ông không bằng sợi lông đàn bà”.

Đàn bà muốn là trời muốn, đàn bà đã tỏ ra hơn đàn ông rất nhiều, khỏi cần phải bàn cãi lôi thôi, ai ai cũng đã đồng ý cả rồi

Có nói thêm thì chỉ nhục đàn ông, chả ích gì.

Xưa kia cũng đã thuộc lòng câu “Tiên học lễ hậu học văn”. Lễ phép là việc tối cần cho nên phải kính trọng người già kẻ cả, phải khoanh tay, cúi đầu, phải vâng, dạ, thưa, gởi, bẩm, trình, … không bao giờ đuợc kêu tên tục cha, ông, cô, bác.

Ngày nay, ở xã hội anh em mình đang sống, nếu ai yêu mình thì họ lấy tên mình đặt cho con họ, hay đặt tên cho con chó của họ nếu họ không có con, mà ở đây ít khi họ có con …

Ở đây bán cái gì cũng xếp hàng thứ tự, còn ở bên nhà thì phải lấn phải chen, ai mà chân yếu tay mềm thì chắc không bao giờ mua được, chỉ còn nước mua giá “chợ đen”.

Như vậy chắc không cần chỉ vẻ các môn chen lấn. Nhớ lại hồi còn đi học, thuộc lòng 8 bảng cửu chương, tập viết cho chữ thật đẹp. Ngày nay ở noi đây, hình như các cháu không cần học như mình nữa!

Mới nghĩ sơ qua về xưa và nay, mới so sánh ít nhiều xã hội ta với xã hội Âu, Mã đã thấy nhiều cái khó khăn trong việc giáo dục trẻ con ngày nay.

Chắc chắn các Trưởng hiện thời có nhiều chuyện điên đầu.

Cũng vì mọi thay đổi Xưa – Nay và khác biệt Âu – Á, tôi không dám đi sâu thêm nữa vào “Nghề Trưỏng” mặc dầu hơn 50 năm về trước tôi đã là … Đội Trưỏng Đội Sóc, và 20 năm trước đây là Châu Trưởng Châu Đồng Nai mà anh em thương gọi là Chưởng Trâu Nai Đồng Quê.

Dù thế nào chăng nữa, tôi cũng vẫn tin là các Trưởng hiện nay đầy đủ tinh khôn để dẫn dắt các em tiến mạnh trên đường thành công.

Mai Xuân Tý